Thầy giáo Nguyễn Tài Cẩn với lời Truyện Kiều

Ẩm thực
Rate this post

Trước giờ trao giải, đã có 6 người nổi tiếng ngồi cùng mâm thảnh thơi chốn bồng lai tiên cảnh, đó là: Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo, Trần Văn Giáp. Có 2 người là Giáo sư Ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, Giáo sư Sử học Hà Văn Tấn chứng kiến ​​giây phút đăng quang.

Một cô giáo say mê Truyện Kiều

Sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu khoa học của Nguyễn Tài Cẩn (1926 – 2011) đã được Nhà nước Việt Nam công nhận, còn về con người “nhân tạo” mà Nguyễn Tài Cẩn được bạn bè, đồng nghiệp “gói ghém” trong “8 chữ kim cương”: Sâu sắc – khôn ngoan – nghiêm khắc – tài hoa.

Nhà giáo Nguyễn Tài Cẩn (bên phải) nói về ý nghĩa của Truyện Kiều.
Thầy giáo Nguyễn Tài Cẩn (phải) nói về ý nghĩa của Truyện Kiều.

Tháng 1/2006, khi ông Cần về quê ngoại, thôn Thượng Thọ, xã Thanh Văn, huyện Thanh Chương, biết tin mới phát hiện Truyện Kiều mà chúng tôi chưa được đọc, tôi đã mạnh dạn đặt vấn đề về việc bị nhà ngôn ngữ học, nhưng ông lại chuyển sang nghiên cứu các văn bản Kiều cổ.

Trả lời câu hỏi này, ông Cần cho rằng, hai cuốn sách nghiên cứu về Truyện Kiều vừa được phát hành, 500 ca từ Truyện Kiều sắp xuất bản không phải “đổi món”. Ông cho biết, đầu những năm 80 của thế kỷ trước, ông và vợ (Tiến sĩ ngôn ngữ học Nona Stankevich) được cử sang giảng dạy tại Đại học Paris VII trong 3 tháng.

Đi Pháp hôm trước, hôm sau vợ chồng Hoàng Xuân Hãn đến thăm hỏi anh đi Pháp, làm được gì mà ở Hà Nội không làm được? Ông Khẩn cho biết, ông có hai công việc, một làm trong cơ quan truyền giáo nước ngoài vì theo đạo Công giáo từ thế kỷ XVI – XVII đến nay. Thứ hai, sưu tầm các văn bản cổ, chẳng hạn như các bản Kiều cổ mà bạn không có ở nhà.

Vậy là suốt 3 tháng ở Pháp, ông Cần đã mất 2 tháng “nằm võng” ở cơ quan công tác nước ngoài, đeo bám Pháp sư và Hoàng Xuân Hãn để sưu tầm Truyện Kiều.

Và ông đã sưu tầm được 9 bản Kiều cổ để nghiên cứu, trong đó, ông rất coi trọng bản Duy Minh Thi. Và giữa các bản có khoảng 1.700 câu khác nhau, đến nay đã thống nhất được 1.300 câu. Điều đó rất quý, nhưng vẫn còn hàng trăm câu đối khác nhau và trong số này có khoảng 200 câu rất dễ giải vì người khắc sai nên ai cũng thấy.

Và giải thích những từ gây tranh cãi

Không có ngôn ngữ nào dễ bị “cháy bút khỏi nhà” như tiếng Việt. Cùng một ký hiệu (~) “con sâu”, nhưng khi dùng làm thanh điệu ta nâng cao hoặc đặt nằm ngang thì ý nghĩa khác hẳn.

Thầy giáo Nguyễn Tài Cẩn với lời Truyện Kiều - Ảnh 1

Thưa thầy, dấu hỏi (?) Dấu ngã (~) dẫn đến “nghỉ” hoặc “nghĩ” trong nhà (…) cũng thường là bậc trung, hay chữ “ngày” hoặc “ngày” đóng mộ Đạm Tiên? Theo ông Cần, các cụ chép về cụ Nguyễn Du, hay chính cụ Nguyễn Du thì chữ “phải” cũng là chữ “ngày”.

Người xứ Nghệ nói “đi ba ngay” là ngày; Người miền Bắc, người miền Nam, người Huế không hiểu chữ ngay. Người đọc sau này ngày ngày đọc mộ Đạm Tiên, cảm thấy không hợp lý nên đã đổi thành “ngày ngày chơi ở mộ Đạm Tiên”.

Đối với người Việt Nam để biểu thị ngày và đêm chỉ cần nói “cấm”: Ngày và đêm. Phiên cũng biểu thị thời lượng nhưng ngắn hơn hội đồng quản trị; sáng / trưa / chiều / tối. Nói ban ngày là không đúng, trừ lối viết tắt “phim này chiếu hai lần, ngày chiếu 9h, đêm chiếu 23h”.

Người chép sau không hiểu người Nghệ chép trước nên đã sửa thành “Chơi mộ Đạm Tiên mỗi ngày”. Nếu đúng thì mẹ Nguyễn Du mất ở Tiên Điền. Khi sống ở đây đến năm 1781, tiếng Nghệ của ông cũng rất đậm đặc! Và “nghĩ” ở đây đồng nghĩa với vốn.

Trong Truyền thuyết Man Lục, mỗi khi có từ lóng (vốn là chữ) được dịch là suy nghĩ, nên cứ viết dấu ngã (~) là đúng! Có rất nhiều “bị bắt” về từ ngữ. Bản Kiều Oánh Mậu năm 1888 đời Thành Thái do kỵ binh ghi “Gió thổi mấy cây sậy”, nhưng các bản Kiều xưa đều ghi “Gió thổi mấy cây sậy”.

Ngọn lau không đẹp bằng lau sậy nhưng cũng đúng vì sinh vật học nói rằng hoa lau chỉ nở vào mùa thu, Thanh minh lau chưa nở nhưng cũng không phải là mùa nở, chỉ có đầu cây sậy! Nguyễn Trung Ngạn viết: Sắc lạ ngạc tấn Phong (Cờ lau bay trắng trời thu), mấy trăm năm trước có nhà thơ Việt Nam viết rằng, người viết sau cho rằng “bông” đẹp hơn. hơn “top” nên nó được viết là: “cotton”.

Hay như một bản Kiều chép rằng “Khinh người già mới nghĩ hiền tài”, trong một lần đi khảo sát thực địa, ông nội Hoàng Xuân Hãn bất ngờ hỏi Tiến sĩ Nghè Mai (1876 – 1954, hậu duệ của Nguyễn Du), sau một lúc suy nghĩ. , Ông Nghè Mai trả lời: “Trong gia đình tôi nói” trọng nghĩa “, không phải” trọng nghĩa “để tránh tên chú là Nguyễn Trọng! Có kỵ binh triều đình và cũng có kỵ binh gia tộc. Con cháu. của cụ Nguyễn Du nói không thể tin được, mới đây ông Ngô Đức Thọ chuyên kỵ đã nghiên cứu ra chữ “trong” thừa nét.

Tất cả các bản Kiều đều nói “Pha nghề thơ sơn hương tán”, chỉ có bản Duy Minh Thi năm 1872 là tranh vẽ, đây là bản chính xác. Bởi vì tranh thơ với tụng là lặp đi lặp lại, ngược lại trộn thư pháp là trộn thư pháp, và tranh pháp nói Kiều cũng giỏi món này. Bằng chứng là Hoạn Thư ghen đến mức phải thốt lên: “Khen mà văn phong cũng được…”. Cũng vì cách nói của người Nghệ nên “viết thư” còn gọi là “sửa thơ”, mà từ “thư” thành “thơ” rồi từ “thơ” thành “thi” chỉ cách nhau trong gang tấc!

Theo ông Cần, trong cuộc hội ngộ Kim – Kiều, nàng Kiều đã nói: “Tưởng rằng ở đạo vợ chồng / Hoa thơm, nhụy, trăng, tròn gương soi”. Câu này có nghĩa là “em không còn trinh nữa”, em là “bông hoa của sự sống” và không còn “nụ sự sống” nữa, hãy làm bạn với anh ấy nhé!

Cũng như cung cách của vua tôi, cha con, quân tử, anh em; Bạn hãy nghiên cứu kỹ khi nói về đạo vợ chồng là nói về đạo đức. Ví như đối với người chồng thì lễ phép, khi đưa tách trà thì đưa tay lên ngang trán, khi chồng ngồi học thì quay tơ ban đêm cho con ăn… Đó là đạo vợ chồng. .

Đạo không nói đến “chuyện ấy” giữa vợ và chồng, dù cuộc đời có “chuyện ấy” sinh sôi nảy nở, nhưng Nho giáo không đem “chuyện ấy” trở thành đạo. Vì vậy Nguyễn Du đã viết trong Duy Minh Thi: Nghĩ trong việc cưới xin. Nhiều khi chữ “điều” được đánh giá cao hơn chữ “đạo” dù thoạt nghe có vẻ kém hơn.

Một lần nữa, “Đây, tôi sẽ lấy một ít hương.” Nó “có sẵn” và “tìm kiếm” âm thanh tốt? Xuân Diệu nói: Ở đây chúng ta sẽ thắp vài nén nhang, nghe thì có vẻ đúng, nhưng xét về mặt chữ Nôm thì “kiếm” và “sáng” rất khác nhau. Ông Hoàng Xuân Hãn đề nghị chúng tôi “cắm” mấy cây nhang.

Chữ “kiếm” và chữ “cắm” gần nhau quả là một điều đáng suy nghĩ. Cá nhân Hoàng Xuân Hãn đánh giá như vậy, cá nhân Nguyễn Tài Cẩn cũng đánh giá như vậy, đồng nghiệp có đồng tình không? Vì vậy, vấn đề phải được đưa ra bàn bạc cùng nhau để đi đến thống nhất. Khoa học phải đoàn kết. Để thấy rằng việc nghiên cứu văn bản Truyện Kiều là rất khó.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *